Thursday, May 11, 2006

VỀ MỘT MÓN QÙA VATICAN MUỐN
GỬI TẶNG CÁC DÂN TỘC CHÂU Á

"Ðức Giêsu cứu tinh: Một món qùa gởi tặng Châu Á". Ðó là tiêu đề của chương hai, Tông huấn giáo hội tại Châu Á. Ðoạn số 10, Tông huấn viết :
"Niềm tin của Giáo hội vào Ðức Giêsu là một quà tặng vừa nhận được vừa để chia sẻ, đó chính là món quà lớn nhất mà Giáo hội có thể tặng cho Châu Á. Giáo hội không thể cất giữ hay độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy mà họ đã nhận được từ tay chúa nhân lành để thông chia cho toàn thể nhân loại." (S10).
Ða số người Châu Á ngày nay không hiểu về giáo lý cao siêu của Vatican ra sao? Cũng không biết món quà quý báu nhất mà Vatican đã hào phóng sẵn sàng tặng hết cho người Châu Á giá trị thực sự như thế nào? Nhưng người Châu Á có thể dõi theo lịch sử, ngược về qúa khứ để tìm hiểu đôi điều về "món quà" mà Vatican định tặng cho quần chúng Châu Á.
"Giêsu cứu tinh" chính là "món quà" mà Vatican gởi tặng Châu Á! Ðiều ngạc nhiên là "món quà" này lại bị người Do Thái quyết liệt từ chối. Chúng ta biết rằng Giêsu đúng là vị cứu tinh (Mêsia) mà người Do Thái đã kỳ vọng nhiều nơi ông với hy vọng ông có thể lãnh đạo nhân dân Do Thái dành lại độc lập từ tay đế quốc La Mã. Ông đúng là "món quà" mà Thượng Ðế gởi tặng nhân dân Do Thái. Thế nhưng Ðế quốc La Mã đã cướp đi "món quà" ấy bằng bản án tử hình "đóng đinh thập giá" dành cho Giêsu. Nhiều nhà sử học cho rằng, chính đế quốc La Mã đã chủ trương giết Giêsu vì ảnh hưởng của Giêsu đối với quần chúng Do Thái bị áp bức là rất lớn. Hình thức xử án treo trên thập giá đối với tử tù là của luật pháp đế quốc La Mã. Theo luật Do Thái, người bị kết án tử hình phải chịu ném đá cho đến chết, chỉ có luật pháp La Mã mới xử đóng đinh tội nhân trên thập giá.
Theo Kinh Thánh, Giêsu bị dân Do Thái bắt nộp cho Philatô, họ yêu cầu phải xử tử Giêsu. Philatô muốn tha cho Giêsu nhưng bị dân chúng phải đối. Vì thế ông đã quyết định "rửa tay" trả Giêsu về cho dân Do Thái để họ xử Giêsu theo luật Do Thái. Nếu sự thật là vậy thì Giêsu phải bị ném đá chứ không phải bị xử đóng đinh thập giá. Nhiều nhà sử học cho rằng: Ðã có một cuộc "chỉnh lý" Kinh Thánh sau khi Constantine thành lập giáo hội Công giáo nhằm đáp ứng mục tiêu chính trị của Ðế quốc La Mã.
Giêsu mất đi nhưng ảnh hưởng của ông vẫn còn đối với nhân dân Do Thái. Các nhóm Kitô nguyên thủy vẫn còn và họ hoạt động bí mật tại Jêrusalem. Ba thế kỷ sau, "món qùa Giêsu cứu tinh" một lần nữa lại bị hoàng đế La Mã Constantine cướp đi từ tay các nhóm Kitô nguyên thủy. Constantine thành lập Giáo hội Công giáo La Mã và muốn thống nhất tất cả các hệ phái Kitô nguyên thủy thành một lực lượng tập hợp dưới ngọn cờ "Giêsu". Ðể phục vụ tham vọng đế quốc của mình dưới chiêu bài tôn giáo, Giáo hội Rôma đã cho "chỉnh lý" lại toàn bộ Kinh Thánh. Ðế quốc La Mã đã khôn ngoan lèo lái vụ án Giêsu sang hướng kết án Dân Do Thái tội "Giết Chúa". Hành động "rửa tay" của Philatô cho thấy đế quốc La Mã vô can. La Mã thời đó đã quá thành công trong việc cùng lúc đạt được hai mục tiêu: Một là thống nhất tất cả các nhóm Kitô nguyên thủy thành Công giáo La Mã, một công cụ vô cùng đắc lực hoạt động trong guồng máy cai trị của đế quốc La Mã. Hai là khống chế hiệu qủa các lực lượng cách mạng Do Thái. "Giết Chúa" là một cái cớ để La Mã có thể thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh dành độc lập của nhân dân Do Thái.
Jêrusalem là đất thánh, nhưng lại nằm trong tay bọn "giết Chúa". Vì thế, những cuộc hành hương về đất thánh của Giáo hội Rôma luôn là những cuộc hành quân của những binh đoàn võ trang hùng mạnh. Binh thánh giá, hay thập tự quân chính là tên gọi của lực lượng quân sự này. Ngày 27/11/1095, Giáo hoàng Urban II triệu tập công đồng Clermont kêu gọi "tái chiếm Jêrusalem, cứu đất thánh.". Giáo hoàng Urban II hứa "ban ơn toàn xá" cho tất cả những ai tình nguyện gia nhập đoàn quân viễn chinh của Giáo hội. Những tín đồ cuồng tín gia nhập rất đông vì họ cho rằng, lỡ có chết trận thì cũng bảo đảm được "phần rỗi linh hồn" do đã được Giáo hoàng ban ơn toàn xá!?. Ðiều trớ trêu là những người tham gia thánh chiến vì ham mê "ơn toàn xá" của Giáo hoàng mà gia nhập, chứ họ chưa hề qua một lớp huấn luyện quân sự nào. Ðây rõ ràng là một đoàn quân ô hợp, vô kỷ luật và cuồng tín. Kết quả là nhiều người "lên thiên đàng thẳng cẳng" nhờ ơn toàn xá của Giáo hoàng! Một năm sau (1096), khi đoàn quân ô hợp đã hoàn toàn tan rã, Thập tự quân lại tập hợp lực lượng đến 300 ngàn quân dưới sự lãnh đạo của Giám mục khâm sai Tòa Thánh Ademar tập kết tại Constantinopoli. Cuộc chiến đẫm máu đã diễn ra tại nhiều nơi, từ cao nguyên Cappađocia đến Ðorylêa, nhưng khốc liệt nhất là mặt trận Antiokia. Tại đây, đoàn thập tự quân của Giáo hội bị quân Thổ đánh tơi tả không còn manh giáp. Người ta phải dùng đến chiến tranh tâm lý để trấn an binh sĩ. Họ phao tin đã tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu dưới bàn thờ trong đền thánh Phêrô!?. Sẽ có một đạo quân mặc giáp trắng từ trời xuống làm viện binh. Ðòn tâm lý có tác dụng tức khắc, nó vực dậy tinh thần chiến đấu của thập tự quân, nhờ thế mà họ làm chủ được mặt trận Antiokia. Từ đây, đoàn quân thập tự tiến thẳng về đất thánh Jêrusalem. Năm 1146, cuộc viễn chinh thứ hai của Giáo hội do Benađô thống lĩnh cũng đã thất bại nặng nề tại Ðamas. những cuộc chiến tranh do Giáo hội phát động rất nhiều. Trong đó có 8 cuộc chiến được ghi nhận là quy mô đã cướp đi sinh mạng hàng triệu con người. Tất cả những cuộc thánh chiến đều lấy danh nghĩa "hành hương đất thánh Jêsusalem!" mà người Do Thái là nạn nhân số một. Vì thế, không lạ gì "món quà Giêsu cứu tinh" mà Vatican "ban tặng" cho Châu Á ngày nay, lại bị người Do Thái tẩy chay, mà chính ra họ phải là người đâu tiên dang tay đón nhận.
".Món quà lớn nhất mà Giáo hội có thể tặng cho Châu Á. Giáo hội không thể cất giữ hay độc quyền chiếm giữ sự mới mẻ và phong phú ấy." (S10). Cái gọi là "mới mẻ và phong phú" khiến người ta nhớ lại cuộc chiến đẫm máu giữa Giáo hội Rôma với giáo phái Cathar (Bogomil, Patarin, Albigian). Giáo phái này rất mạnh, họ có tổ chức giáo hội quy củ, tín đồ có kỷ luật và rất trung thành. Giáo phái Cathar cũng đưa ra giáo thuyết "mới mẻ và phong phú" là không phục tùng giáo quyền Rôma. Giáo hội Công giáo LaMã nhận thấy nguy cơ tiềm ẩn nơi giáo phái này nên đã quyết tâm ra tay trừ khử. Giáo hoàng Innocentê III là người phát động cuộc thập tự chinh nhằm tiêu diệt giáo phái Cathar. Giáo hoàng đã ban chiếu chỉ "Ta thuận ban cho tất cả những ai tham gia cuộc thánh chiến này để bảo vệ đức tin một ân xá mà ta vốn ban cho những kẻ hành hương viếng đền thờ thánh Phêrô tại La Mã hoặc thánh Giacôbê thành Compostella". Thập tự quân đặt dưới quyền chỉ huy của khâm sai Arnaud Amaury và Simon Montfort. Kết quả là hàng ngàn tín đồ giáo phái Cathar bị giết trong giao chiến, hàng ngàn tù binh bị bắt và bị thiêu sống trên giàn hỏa. một số khác được khuyến dụ bỏ giáo phái Cathar để trở về với Công giáo La Mã nhưng tất cả bọn họ đều từ chối, thẳng thừng tuyên bố dù chết cũng không bỏ giáo phái Cathar để theo Công giáo La Mã, tuyên bố xong họ tự động nhảy lên giàn hỏa.
VỀ MỘT VẤN ÐỀ "GÂY KHÓ CHỊU" CỦA TÍN LÝ CÔNG GIÁO, NHƯNG KHÔNG PHẢI CHO NGƯỜI CHÂU Á.
Sự sung đột thần học giữa những người anh em Hồi giáo, Do Thái giáo với Kitô giáo
Ðoạn số 12, Tông huấn viết: "Ðiều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người" (S12). Thực ra, chẳng ai "khó chịu" khi Kitô giáo tin rằng Chúa của họ là "Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người", ngoại trừ Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nhưng cả hai tôn giáo này cùng với Kitô giáo đều cùng một gốc, cùng tin nhận chúa của Abraham. Chúng ta biết rằng, Giêsu là một con người bình thường như mọi người, người gốc Nazaret, năm ba mươi ba tuổi bị kết án tử hình treo trên thập giá. chính con người này mà hành trạng của ông đã được những người theo ông (môn đệ) kể lại, về sau được các ông Luca, Matthêu, Maccô, Gioan ghi chép, tập hợp thành một bộ sách mà ngày nay người ta gọi là Tân Ước, Phúc Âm hay Tin Mừng. Bản thân của Giêsu chưa bao giờ tự nhận mình chính là Thiên Chúa, ông chỉ nói ông là "con Ðấng Tối Cao" (Lc 1:32), người mà ông tôn thờ là Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha. Ông nói: "không thể đến với Cha ta mà không qua ta"(Ga14:6), "Cha ta ở trong ta và Ngài đang làm việc" (Ga14:10).v.v… Ông chỉ tự xưng mình là Thầy với môn đồ của ông, tuyệt nhiên chưa bao giờ tự nhận mình là Thiên Chúa trước bất kỳ một môn đệ nào. Ngay cả những giờ phút sau cùng của cuộc đời mình, ông cũng không hề nhận mình là Thiên Chúa, nhưng chỉ một mực hướng về vị Chúa của Do Thái giáo mà ông gọi thân mật là Cha. "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm"(Lc 23:34), trong giờ phút sau cùng của đời ông có lúc ông phải kêu cứu: "Cha ơi! Sao cha bỏ con." (Mc 15:3). Và trước khi trút hơi thở sau cùng: "Lạy Cha! Con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha!"(Lc 23:46) v.v… Giáo phái Arius mượn câu Phúc Âm của Gioan: "Cha ta cao trọng hơn ta" (Ga 14:28) để chứng minh: Giêsu không phải là Thiên Chúa.
Ðối với Do Thái giáo, dựa vào Cựu ước, kinh thánh của Do Thái giáo, sẽ có một "Ðấng Cứu Thế" (Messia) được Davê sai xuống để cứu độ tín đồ Do Thái giáo. Nhưng vị đó chắc chắn không phải là nhân vật Giêsu ở Nazaret. Ðây chính là điểm mâu thuẫn giữa Kitô giáo và Do Thái giáo.
Ðối với Hồi Giáo, Thiên Chúa của tôn giáo này cũng chính là Thiên Chúa được Abraham giới thiệu trong cựu ước, tức kinh thánh của Do Thái Giáo. Chính Mahomet, giáo chủ Hồi giáo khẳng định Sứ Thần Gabriel đã khải thị cho ông viết kinh Coran. Ðiều này thật rõ ràng khi ta lấy vài đoạn nhỏ trong kinh Coran của Hồi Giáo đối chiếu với Cựu Ước. Kinh Coran kể lại câu chuyện Thiên Chúa quyết tâm trừng trị dân thành Sôđôma. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành ấy. Nhưng Thiên Chúa đã nói với ông việc gì mà Thiên Chúa đã quyết định thì không thể thay đổi. Kết quả là thành Sôđôma bị Thiên Chúa hủy diệt… Cùng câu chuyện trên, nhưng tình tiết câu chuyện lại khác trong cựu ước. Abraham đã xin Thiên Chúa tha thứ cho dân thành, và "Chúa của cựu ước" đã không quyết đoán như "Chúa của Coran". Nếu Chúa trong kinh Coran "đã quyết định thì không thể thay đổi", thì Chúa của Cựu ước tỏ ra dễ dãi hơn, đã cho phép Abrahan "trả giá": Nếu có năm mươi người nhơn đức thì Ngài sẽ tha không trừng phạt thành Sôđôma. Rồi bốn mươi người.?, ba mươi người.?, hai mươi người thôi.? Cuối cùng chỉ cần mười người.? Chúa đã nói với Abraham: Chỉ cần có mười người nhơn đức trong thành thôi, ta sẽ không huỷ diệt thành đó…
Nhưng điểm mâu thuẫn lớn nhất giữa Kitô giáo và Hồi giáo lại không phải là những tiểu tiết đó, mà chính là sự thừa nhận nhân vật Giêsu. Hồi Giáo chỉ công nhận Giêsu là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Chính việc "Thiên Chúa hóa" nhân vật Giêsu của Kitô giáo đã đẩy Hồi giáo, Do Thái giáo vào thế đối đầu. Hiện nay Do Thái giáo vẫn đang mong đợi một Messia nào đó chứ không phải Giêsu. Trong khi đó thì Hồi giáo lại cho rằng khi Kitô giáo "Thiên Chúa hóa" Giêsu, bắt một con người "làm Chúa" là đã cố tình xúc phạm, nhục mạ Thiên Chúa.
Tóm lại, khi nói đến thần học, không nên hiểu chỉ có một loại thần học chung nhất, mà phải phân biệt rạch ròi thần học Kitô giáo, thần học Do Thái giáo, thần học Hồi giáo. Ngay trong nền thần học Kitô giáo cũng có những thần học mâu thuẫn, đối lập nhau. Chính các nền thần học này đã nhào nặn ra "các Thiên Chúa" khác nhau từ một Thiên Chúa của Abraham. Vì thế, khi thần học Kitô giáo khởi xướng học thuyết "Mầu nhiệm nhập thể" thì bị nền thần học Do Thái giáo và nhất là thần học Hồi giáo công kích, phủ nhận. Ðiều này giải thích tại sao có những cuộc xung đột tôn giáo triền miên xảy ra giữa ba tôn giáo vốn được xem là có cùng một gốc. Sự xung đột do mâu thuẫn về các quan điểm thần học giữa Kitô giáo và Hồi giáo dẫn đến sự tiêu diệt lẫn nhau đã được lịch sử ghi nhận, và Tông huấn nhắc lại: "Vào thế kỷ 13, Tin Mừng được loan báo một lần nữa cho những người Mông Cồ, Thổ và người Trung Quốc. Nhưng Kitô giáo rất mau biến mất tại các vùng này vì nhiều lý do, trong số đó phải kể tới sự xuất hiện của Hồi Giáo" (S9). Kitô giáo "rất mau biến mất" tại Châu Á ở thế kỷ 13 chỉ vì người anh em Hồi giáo của mình. "Chúa Thánh Thần" đôi khi thích làm những việc trái khoáy đẩy Vatican vào thế bất lợi…
"Sự khó chịu" (nếu có) của người Châu Á phi Kitô giáo.
Ðối với các tôn giáo đông phương như Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo v.v.. các quan điểm thần học dù là của bất ký ai, Do Thái giáo, Kitô giáo hay Hồi giáo. Tất cả đều không ảnh hưởng gì đến các tôn giáo này, nên không có chuyện "khó chịu" trước các quan điểm thần học Kitô giáo. Các tôn giáo cùng một gốc như Hồi giáo, Do Thái giáo, Kitô giáo thuộc về một hệ quy chiếu. Các tôn giáo đông phương lại thuộc về một hệ quy chiếu khác. Vì thế, sự "khó chịu" (nếu có) ở các tôn giáo đông phương đối với Kitô giáo, chỉ có thể có trong trường hợp học thuyết của các tôn giáo bị xuyên tạc, bóp méo với mục đích "đồng hóa". Nói cách khác, nó chỉ xảy ra trên bình diện "giao tế", thái độ ứng xử trong từng trường hợp cụ thể, chứ không phải do mâu thuẫn trên quan điểm thần học. Ðiều này dễ hiểu vì các tôn giáo đông phương như Phật - Lão - Khổng không có thần học, nên không có chuyện xung đột về các quan điểm thần học giữa các tôn giáo này với Kitô giáo. Ví du: Ðối với Phật giáo. Thiên Chúa, dù là của Kitô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, tuyệt nhiên không có chỗ đứng trong tôn giáo này. Tuy nhiên, họ vẫn tôn trọng các quan điểm thần học như "vị cứu tinh duy nhất" của Kitô giáo. Cũng có nghĩa là họ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của các tôn giáo. Nhưng nếu Kitô giáo quy chụp giáo chủ của họ thành "ngôn sứ" của Thiên Chúa Kitô giáo, tôn giáo của họ là "cơ hội quan phòng" của Thiên Chúa Kitô giáo, thì rõ ràng đó là một sự khiêu khích, thách thức, xúc phạm trắng trợn buộc họ không thể bỏ qua. và tất nhiên, cái "khó chịu" ở đây chính là cách hành xử thô bạo, kém tế nhị, thiếu tinh tế, chứ không phải vì các quan điểm thần học. Tiếc rằng điều này đã trở thành chiêu thức mà Vatican vận dụng trong hành trình văn hóa của mình tại Châu Á.
Qua những điều vừa trình bày trên, cho thấy: "Ðiều gây khó chịu." chỉ thực sự "khó chịu" đối với những người anh em của Kitô giáo là Hồi giáo và Do Thái giáo, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến các nền văn hóa và tôn giáo Ðông Phương. Theo thiển ý của tôi, nếu Vatican muốn thuyết phục để người ta tin rằng "Ðức Giêsu Kitô là đấng cứu độ duy nhất", thì nên thuyết phục những người anh em của mình trước, hãy "Phúc âm hóa" Do Thái giáo và Hồi Giáo. Nếu không làm được việc này, khoan nói đến chuyện "Phúc âm hóa Châu Á". Ðó chỉ là ảo tưởng, đừng nói đến thiên niên kỷ thứ ba, sang thiên niên kỷ thứ tư, thậm chí thứ năm, thứ sáu. Thánh giá cũng chẳng bao giờ trồng được trên mảnh đất Châu Á này!
Trong câu: "Ðiều gây khó chịu nhất trong Kitô giáo là người ta tin rằng Thiên Chúa chí thánh, toàn năng, toàn trí đã mang lấy bản tính con người của chúng ta, đã chịu đau khổ và chịu chết để đem lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người" (S12). Cụm từ "Ðiều gây khó chịu nhất.." ám chỉ "sự khó chịu" (có thể có mà cũng có thể không) của các dân tộc Châu Á ngày nay, thực sự chỉ là nỗi lo sợ vu vơ, không có căn cứ, vì các dân tộc Châu Á chẳng bao giờ quan tâm đến những gì mà tín đồ Kitô giáo gọi là "đức tin". Họ chỉ phản ứng trong trường hợp bị xúc phạm, điển hình là vụ Giáo Hoàng cho xuất bản quyển "Bước vào hy vọng". Tuy nhiên, cụm từ "mang lấy bản tính con người của chúng ta.." làm gợi nhớ đến một quá khứ lịch sử kinh hoàng đã xảy ra ngay trong lòng giáo hội vào thời mới thành lập. Ðó chính là cuộc chiến tranh "bản tính" và "ngôi vị" đã cướp đi sinh mạng của nhiều người.